Các dấu hiệu dễ nhận biết báo cáo tài chính gian lận

Nhiều doanh nghiệp hiện nay vẫn tự lập báo cáo tài chính với chất lượng chưa thực sự đảm bảo. Việc phát hiện sớm các dấu hiệu gian lận hay thủ thuật “làm đẹp” số liệu sẽ giúp nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro và đưa ra quyết định cổ phiếu chính xác hơn.

Ba động cơ chính để gian lận báo cáo tài chính

Trong lĩnh vực đầu tư, không thể không nhắc đến kế toán – được coi là ngôn ngữ của kinh doanh, phản ánh một phần thông tin mà ban lãnh đạo doanh nghiệp muốn truyền tải tới nhà đầu tư.

Kế toán hoạt động dựa trên các nguyên tắc dồn tích, thận trọng và phù hợp. Do đó, báo cáo tài chính vừa thể hiện ý chí của ban lãnh đạo đối với các giao dịch kinh tế phát sinh, vừa có thể chứa đựng yếu tố chủ quan nhằm mang lại lợi ích cho một nhóm nhất định. Nhà đầu tư cần đánh giá được tính hợp lý tương đối, cũng như mức độ ảnh hưởng của các bút toán này.

Nhìn chung, các hoạt động thường được gọi là “kế toán sáng tạo” có thể xuất phát từ ba động cơ chính:

Một là, quản lý lợi nhuận. Đây là hành vi có chủ đích nhằm điều chỉnh lợi nhuận theo kế hoạch của ban quản lý. Một số nhà quản lý mới, với áp lực thúc đẩy tăng trưởng, có thể cố tình làm giảm lợi nhuận trong năm hiện tại để tạo mức tăng trưởng lợi nhuận ở các năm sau, qua đó chấm dứt đà suy giảm.

Hai là, làm mềm lợi nhuận. Động cơ này nhằm hạn chế sự biến động bất thường của lợi nhuận, bằng cách điều chỉnh giảm trong những năm có thu nhập quá cao, từ đó tạo ra bức tranh kinh doanh ổn định hơn.

Ba là, gian lận báo cáo tài chính. Đây là hành vi cố ý tạo ra sai sót trọng yếu nhằm đánh lừa người sử dụng báo cáo tài chính.

Các dấu hiệu dễ nhận biết báo cáo tài chính gian lận
Các dấu hiệu dễ nhận biết báo cáo tài chính gian lận

Một số hành vi cần chú ý

Dưới đây là một số hành vi được sắp xếp theo mức độ nghiêm trọng tăng dần:

Kéo dài thời gian khấu hao tài sản cố định
Mục đích nhằm giảm chi phí không bằng tiền, giúp doanh nghiệp ghi nhận lợi nhuận “đỡ xấu” hơn trong giai đoạn khó khăn. Hành vi này không bị coi là nghiêm trọng nếu doanh nghiệp công bố thông tin đầy đủ. Thực tế, trong giai đoạn tăng trưởng tốt, doanh nghiệp có thể thay đổi phương pháp trích khấu hao nhanh để giảm số thuế thu nhập phải nộp.
Chính sách này đặc biệt phổ biến ở các doanh nghiệp có hệ số tổng tài sản/lợi nhuận cao như vật liệu xây dựng, vận tải hàng không… – những ngành thâm dụng vốn, thường xuyên cần giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư.
Thông thường, tài sản có giá trị sử dụng dài hơn thời gian khấu hao trên lý thuyết, nên về dài hạn chính sách này không ảnh hưởng lớn đến giá trị thực nhận của cổ đông, miễn là thông tin minh bạch.

Không ghi nhận dự phòng giảm giá tồn kho, hàng bán bị trả lại
Đối với các ngành có vòng quay hàng hóa lớn, rủi ro hư hỏng hoặc giảm giá trị cao như thủy sản, nông sản, thực phẩm…, việc không trích lập dự phòng sẽ thiếu khách quan. Sẽ khó thuyết phục nếu trên bảng cân đối kế toán không có khoản dự phòng nào cho hàng tồn kho.

Vốn hóa chi phí lãi vay và chi phí sửa chữa lớn sau khi tài sản đã hình thành
Việc này có thể gây hiểu lầm cho người đọc báo cáo tài chính vì chi phí được phân bổ dần theo khấu hao thay vì ghi nhận một lần. Mức độ nghiêm trọng được đánh giá ở mức trung bình (khoảng 50%).
Trường hợp trở nên nghiêm trọng hơn khi chi phí sửa chữa, bảo hành được ghi nhận lớn bất thường nhưng thực tế phát sinh rất nhỏ, phản ánh sự thông đồng giữa doanh nghiệp và bên cung cấp dịch vụ.

Bán chịu vào thời điểm cuối năm để ghi nhận doanh thu
Trong ngắn hạn hành vi này không gây nhiều tác động, nhưng kéo dài sẽ ảnh hưởng đến chất lượng các khoản phải thu, đặc biệt khi bán chịu cho khách hàng mới, không có lịch sử tín dụng tốt và điều khoản thanh toán không chặt chẽ.

Đẩy mạnh chi phí bán hàng, quảng cáo vào quý cuối năm
Mục đích nhằm làm giảm lợi nhuận trong kỳ, dồn lợi nhuận sang năm sau. Một số doanh nghiệp đã thực hiện bằng cách ghi nhận chi phí phải trả ngắn hạn rồi hạch toán vào chi phí quảng cáo, khiến nhà đầu tư khó phát hiện nếu thiếu chứng từ như hợp đồng, hóa đơn, phiếu nhập kho, biên bản nghiệm thu.

Các hành vi nghiêm trọng khác liên quan đến doanh thu
Những hành vi này chủ yếu nhằm ghi nhận doanh thu sai bản chất hoặc sai thời điểm phát sinh, gồm:

  • Ghi nhận doanh thu ngay khi nhận đơn đặt hàng, dù chưa giao hàng; hoặc giao trước hàng khi chưa có đơn đặt hàng.

  • Ghi nhận doanh thu khi vẫn còn tranh chấp với khách hàng hoặc trong nội bộ tập đoàn.

  • Ghi nhận toàn bộ doanh thu khi mới chuyển giao một phần hàng hóa/dịch vụ, điển hình trong ngành xây dựng, khi doanh thu được ước lượng theo tiến độ mà chưa được chủ đầu tư xác nhận.

  • Ghi nhận doanh thu chủ yếu từ giao dịch với bên liên quan lập ra với mục đích đặc biệt, hàng hóa/dịch vụ không đến tay người tiêu dùng cuối cùng.

  • Ghi nhận doanh thu từ các “đơn hàng kỳ vọng” hoặc dự đoán bán hàng qua đại lý trong tương lai, khi chưa có nhu cầu thực, tiềm ẩn rủi ro hàng bị trả lại.

Tài sản lưu động có quan hệ chặt chẽ với doanh thu, dễ dẫn tới sai sót hoặc gian lận. Ví dụ: ghi nhận sai giá trị hàng tồn kho hoặc khoản phải thu. Doanh nghiệp thậm chí có thể vay vốn lưu động cho những lô hàng không có thật. Trong trường hợp này, vai trò của kiểm toán là rất quan trọng để xác định đúng giá trị hàng tồn kho, vì sai lệch sẽ tác động đến giá vốn hàng bán, làm tổng tài sản tăng ảo và gây hiểu lầm về quy mô công ty.
Doanh thu ảo có thể phát hiện thông qua việc so sánh với các khoản phải thu, kỳ thu tiền bình quân, biến động ngành và dữ liệu lịch sử.

Sai sót trong ghi nhận nợ và chi phí phải trả
Một số doanh nghiệp có thể điều chỉnh nợ vay, chi phí phải trả nhằm cải thiện lợi nhuận. Ví dụ, sử dụng hợp đồng repo để giảm dư nợ vay, tăng tiền mặt vào thời điểm chốt báo cáo.
Trường hợp điển hình là Lehman Brothers (Mỹ). Tại Việt Nam cũng từng ghi nhận tình huống tương tự khi tiền trên bảng cân đối không phải tiền thật của công ty, mà là chi phí tích lũy nhiều năm không ghi nhận, cuối cùng dồn lại thành khoản cho vay bên liên quan và phải trích lập toàn bộ.

“Làm đẹp” dòng tiền hoạt động kinh doanh
Doanh nghiệp có thể phân loại sai chi phí để dòng tiền hoạt động kinh doanh trông khả quan hơn. Ví dụ: chi phí kinh doanh được phân loại thành chi phí đầu tư, tạo cảm giác công ty có dòng tiền dồi dào; hoặc vốn hóa sai bản chất khiến dòng tiền ra từ hoạt động kinh doanh chuyển thành dòng tiền đầu tư.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể vay từ cá nhân liên quan nhưng ghi nhận vào dòng tiền kinh doanh, còn chi trả khoản vay lại đưa vào dòng tiền đầu tư. Một số trường hợp khác là doanh nghiệp cho đại lý vay tiền để mua hàng, làm phát sinh dòng tiền vào kinh doanh nhưng dòng tiền cho vay ra lại ghi nhận vào đầu tư.

Các dấu hiệu dễ nhận biết báo cáo tài chính gian lận
Các dấu hiệu dễ nhận biết báo cáo tài chính gian lận

Để phát hiện, cần xem xét thêm dòng tiền tự do. Nếu dòng tiền kinh doanh không đủ để chi cho đầu tư và tài chính trong nhiều năm, đó có thể là dấu hiệu gian lận trong phân loại dòng tiền, hoặc ít nhất phản ánh hiệu quả hoạt động thấp.

“Cây kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Không có sai phạm nào có thể che giấu mãi. Tuy nhiên, thủ thuật thì nhiều, trong khi năng lực của nhà đầu tư cá nhân và thậm chí một bộ phận kiểm toán viên còn hạn chế. Trong khi đó, ban lãnh đạo lại có nhiều động cơ và lợi ích ngắn hạn, khiến khó tránh khỏi cám dỗ. Chính vì vậy, nhà đầu tư thường được khuyến nghị rằng: mua cổ phiếu của công ty tốt ở mức giá cao vẫn an toàn hơn là ngược lại.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *